NGUYỄN VỸ
(Qúi sửu 1912 – Tân hợi 1971)
Nguyễn Vỹ sinh năm 1912 tại làng Tân-Hội (sau đổi là Tân-Phong, năm1945 lại đổi là Phổ-Phong), huyện Ðức-phổ, tỉnh Quảng Ngãi.Thân phụ ông tên Nguyễn Tuyên làm quan ở huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định nhưng sau xin từ chức, còn mẹ là Trần Thị Luyến. Ngoài ra ông có người bác ruột là Nguyễn Thuyên từng bị thực dân Pháp đày Côn Đảo, anh họ là Nguyễn Nghiêm, người lãnh đạo phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh ở Quảng Ngãi hồi năm 1930 sau bị thực dân giết hại tại tỉnh nhà.
Ông đã từng theo học tại trường Trung học Pháp-Việt ở Qui-nhơn 1924-1927, rồi phải gián đoạn vì tham gia các cuộc vận động chống thực dân, sau đó ông ra Bắc theo học ban tú tài tại Hà Nội.
Năm 1934, ông xuất bản tập thơ đầu tiên, gồm độ 30 bài thơ Việt và thơ Pháp. Từ đó ông cộng tác với các báo chính trị và văn nghệ ở Hà Nội. Năm 1937, Nguyễn Vỹ sáng lập tờ báo Việt-Pháp lấy tên là Le Cygne tức Bạch Nga. Báo này ngoài Nguyễn Vỹ còn có nhà văn tên tuổi Trương Tửu cộng tác. Rồi do Nguyễn Vỹ có viết nhiều bài viết chỉ trích đường lối cai trị của người Pháp nên tờ báo bị đóng cửa, bị rút giấy phép vĩnh viễn. Còn bản thân ông bị qui kết tội “phá rối trị an và phá hoại nền an ninh quốc gia”. Kết quả: ông bị tòa án thực dân tuyên phạt 6 tháng tù và 3000 quan tiền phạt.
Ông mãn tù năm 1939, lúc Pháp thất trận, quân Nhật chiếm đóng và đặt chế độ độc tài cai trị trên đất nước Việt Nam.Thế là Nguyễn Vỹ lại tranh đấu chống Nhật, ông dùng ngòi bút cho xuất bản hai quyển sách chống chế độ quân phiệt Nhật đó là: “Kẻ thù là Nhật-bản”; “Kẻ thù là Nhật-bản”.
Lần nầy cũng như lần trước, Nguyễn Vỹ bị quân Nhật bắt giam tại ngục Trà Khê ( sau này trong tạp chí Phổ thông bộ mới, Nguyễn Vỹ có kể lại những ngày sống trong tù ngục với tựa bài “ Người tù 69”).
Năm 1945, thế chiến thứ hai chấm dứt, Nguyễn Vỹ ra khỏi tù, sáng lập tờ báo Tổ quốc tại Sài-gòn, trong ấy có những bài công kích chính quyền đương thời nên chỉ ít lâu sau, báo Tổ quốc bị đóng cửa.
Sau đấy, Nguyễn Vỹ lại cho ra tờ Dân chủ xuất bản ở Ðà Lạt, chống chính sách quân chủ lập hiến của Bảo Ðại.Tồn tại chẳng bao lâu, báo Dân chủ cũng chung số phận với báo Tổ quốc.
Ðến năm 1952, một nhật báo khác cũng do NguyễnVỹ chủ trương là tờ Dân ta, ra đời để rồi sống chỉ được một thời gian, cuối cùng cũng bị đóng cửa như các tờ báo trước của ông.
Mãi đến năm 1958, ông đứng ra chủ trương bán nguyệt san Phổ thông, chú trọng về nghệ thuật và văn học, tạp chí này được kể là có nhiều uy tín đối với làng báo miền Nam.
Năm 1936, Nguyễn Vỹ được mời làm cố vấn cho chính quyền thời bấy giờ, nhưng chỉ ít lâu sau ông rút lui. Trong khoảng thời gian này ông được phép tái bản nhật báo Dân ta (bộ mới) nhưng đến năm 1965 cũng lại bị đóng cửa và từ 1967 Nguyễn Vỹ chỉ còn chủ trương tạp chí Phổ-thông mà thôi.
Vào ngày 4 tháng 2 năm 1971, ông mất vì tai nạn xe hơi tại Tân An, thọ 69 tuổi.
Nguyễn Vỹ (mang nhiều bút hiệu khác nhau như Diệu-Huyền, Tân-Phong, Tân-Trí vv…) nổi tiếng là một nhà báo dám nói thật, hăng hái đấu tranh. Ông đã để lại nhiều bộ tiểu thuyết, biên khảo, tập thơ và rất nhiều bài viết trên các báo như:Hoang vu (thơ-1962), Đứa con hoang (tiểu thuyết-1936), Chiếc áo cưới màu hồng (tiểu thuyết-1957), Tuấn, chàng trai đất Việt I, II *(biên khảo-1970), Văn thi sĩ tiền chiến (biên khảo-1970) vv… nhưng có lẽ, mảng biên khảo của ông là xuất sắc hơn cả.
Theo: Bùi Thụy Đào Nguyên
———————————————————————————————
Tác phẩm:
– Tập thơ đầu – Premières poésies (Thơ Việt và Pháp), tác giả xuất bản, Hà Nội, 1934
– Đứa con hoang (tiểu thuyết) Nxb Minh Phương, Hà Nội, 1936
– Grandeurs et Servitudes de Nguyễn Văn Nguyên (tập truyện ngắn Việt Nam bằng Pháp văn) Nxb Đông Tây, Hà Nội, 1937
– Kẻ thù là Nhật Bản (luận đề chính trị), Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1938
– Cái họa Nhật Bản (luận đề chính trị), Nxb Thanh Niên, Hà Nội, 1938
– Đứng trước thảm kịch Việt Pháp – Devant le drame Franco Vietnamien, (luận đề chính trị bằng Việt và Pháp văn) tác giả xuất bản, Đà Lạt 1947
– Hào quang Đức Phật (luận đề tôn giáo) tác giả xuất bản, Đà Lạt 1948
– Chiếc áo cưới mầu hồng (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957
– Giây bí rợ (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957
– Hai thiêng liêng I
– Hai thiêng liêng II (tiểu thuyết), Nxb Dân Ta, Sàigòn 1957
– Hoang vu (thơ) Nxb Phổ Thông, Sàigòn 1962
– Mồ hôi nước mắt (tiểu thuyết), Nxb Sống Mới, Sàigòn 1965
– Những đàn bà lừng danh trong lịch sử (biên khảo), Nxb Sống Mới, Sàigòn 1970
– Tuấn, chàng trai nước Việt I
– Tuấn, chàng trai nước Việt II, (chứng tích thời đại), Nxb Triêu Dương, Sàigòn, 1970
– Văn thi sĩ tiền chiến (ký ức văn học), Nxb Khai Trí, sàigòn, 1970
– Buồn muốn khóc lên (thơ) 1970
– Mình ơi (văn hóa tổng quát) 1970
– Thơ lên ruột (thơ trào phúng) 1971
– …
Theo: Vietnam art & Culture