TTO – “Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán”, đã hơn 150 năm từ ngày ông hy sinh, (Cao Bá Quát mất năm 1855) thơ ông vẫn tiếp tục “đánh đu” trên cả dao động và yên tĩnh. Ngưỡng mộ Cao Chu Thần, viết được một trường ca 600 câu về một đêm trong cuộc đời ngắn ngủi của ông, là một trong những điều mà nhà thơ Thanh Thảo cho rằng “bằng lòng hơn cả” trong cuộc đời mình…
TTO xin giới thiệu với bạn đọc bản trường ca “Đêm trên cát” của nhà thơ Thanh Thảo, nhân dịp những người yêu sử Việt đang chuẩn bị kỷ niệm 200 năm ngày sinh của ông, để một lần nữa ngưỡng vọng về khí phách của một nhà thơ anh hùng
Trường ca “Đêm trên cát”
Một đêm của nhà thơ Cao Bá Quát
những con cá vàng ngủ mê trong điện Thái Hòa
cặp mắt giấu sau bóng tối
tiếng thở dài
bàn tay nơi không thấy bàn tay
phút chốc đốm lửa lóe sáng
người lính canh bên con nghê bao giờ
Cao Bá Quát 高伯适 (1809-1855), danh sĩ đời Tự Đức. Ông có tên tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Hiên. Thơ văn của ông được vua Tự Đức, một người giỏi văn thơ, đã phải ngợi khen: Văn như Siêu, Quát vô tiền Hán (Văn như Nguyễn Văn Siêu và Cao Bá Quát, đời Tiền Hán không có ai bằng). Cao Bá Quát là bạn thơ văn với Nguyễn Văn Siêu, tạo nên cặp nhà thơ Thần Siêu Thánh Quát.
Ông sinh năm 1809 tại làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, nay là thôn Phú Thị, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, Hà Nội. Có tài liệu cho rằng quê gốc của ông ở xã Hải Yến, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hoá.
Năm 1832 ông thi hương đỗ Á Nguyên, nhưng thi hội mãi vẫn không đỗ. Nhưng ông không đỗ, không phải vìkém tài mà là vì bị quan trường đánh hỏng. Năm 1841 ông được bổ giữ chức Hành tẩu bộ lễ.
Tháng 8 năm 1841 ông được cử làm sơ khảo trường thi Thừa Thiên, thấy một số bài thi hay nhưng phạm húy, ông cùng bạn chữa giúp. Việc bị phát giác, tội ông đáng chém nhưng sau được xét lại, chỉ cách chức và tù 3 năm. Năm 1847 ông được mời làm ở Viện hàn lâm, sưu tầm văn thơ. Cảm kích trước thái độ ân cần giúp đỡ của hai vị công khanh là Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương, ông gia nhập Mạc Vân Thi xã (do hai công khanh sáng lập).
Do tính khinh miệt triều đinh và vua quan, Cao Bá Quát bị đầy về làm giáo học ở vung quê Quốc Oai và làm Quốc sư cho Lê Duy Cự, dòng dõi nhà Lê, nổi lên chống triều Nguyễn năm 1854. Lúc đầu quân khởi nghĩa dành được một số thắng lợi ở Sơn Tây, Nam Định, nhưng rồi bị quân triều đình đánh tan.
Theo Thư mục chính biên thì ông bị bắn chết trong một trận đánh, nhưng có tài liệu cho rằng ông bị bắt giải về triều và bị chém đầu. Vua Tự Đức ra lệnh tru di tam tộc dòng họ Cao.
|
ta không định ra đi hay ở lại
hoa gạo trong sương sớm
nung nấu lòng kẻ xa
ta đứng phía mặt trời lên chậm
nửa đường đời cơn gió thoảng qua
đừng nói đừng nhắc
ta thèm nghe tiếng giã gạo
vợ hiền tấm mẳn làm thuê
và dòng sông chảy ta nghe
mùa đông bãi quạnh lạnh tê gió lùa
ta như thể cành bàng khô
cắn răng chịu rét mà chờ lộc non
bao giờ
câu hát thời bé dại
“ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng”…
sẽ tới lúc chăng
con nghê đá người lính canh hóa đá
đêm cứng khô như một bức tường
ai thả rơi từng bước chân
hoang vắng…
áo phong trần tả tơi
ta đã giải trọn kiếp người
với dòng sông dựng ngang trời thanh gươm
với bài ca thuở khốn cùng
hát bên người đói ngập ngừng xin cơm
với tàn nhẫn lời roi song
cháy trên da thịt hãy còn biết đau
đừng nói đừng nhắc
ta đã gượng dậy thế nào
để ném những câu thơ
như khạc từng búng máu
có lúc vào canh ba sợi dây đêm chùng lại
ta lấy chiếu đắp thêm cho chú nhỏ
khêu bấc đèn ngóng đợi
ngỡ vừa nghe tiếng kẹt cửa của hư vô
giận mình chưa học được phép ngủ
mắt trừng trừng mở trước vực sâu
những con chuột nhắt
gặm nhấm tấm vải hy vọng
mà ta canh cửi suốt đời
những con chuột nhắt
bò qua khoảng không chóng mặt
lên tận chín tầng trời
khoảnh khắc ta hụt hẫng
mây dưới chân tan loãng rã rời
hố thẳm
bao năm ròng chới với
lòng mê man vin một chút danh hờ
trên đất nước trận bão đen tàn hại
bầy châu chấu từ đâu về che kín mặt trời
lúa te Đọc tiếp »