Thi Nhân Quảng Ngãi

Ngó lên Thiên Ấn nhiều tranh/ Liều mình lén mẹ theo anh phen này

  • Welcome to Thi Nhân Quảng Ngãi!

  • Hân hạnh chào đón quý độc giả ghé thăm. Trang này không có tính chất "đại diện" về bất kỳ ý nghĩa nào cho bất cứ địa phương hay tổ chức nào, đây chỉ là nơi đưa một số bài thơ của một số tác giả lên mạng internet. Hầu hết tác giả trong trang này là người Quảng Ngãi nhưng hoàn toàn không phải hầu hết người Quảng Ngãi làm thơ có trong trang này. Chân thành cảm ơn quý độc giả, tác giả cũng như các bạn bè thân hữu đã gởi bài, giúp trang này ngày càng có nhiều bài vở tư liệu.

  • Giới thiệu sách

  • Phiêu Lãng Ca

    Lưu Lãng Khách

  • Về Chốn Thư Hiên

    Trần Trọng Cát Tường

  • thao thức

    hà quảng

  • bài ca con dế lửa

    nguyễn ngọc hưng

  • 99 Bài Lục Bát

    Nguyễn Tấn On

  • Gieo Hạt

    Huỳnh Vân Hà

  • Quá Giang Thuyền Ngược

    Lâm Anh

  • n bài thơ ngắn

    Đinh Tấn Phước

  • Ảnh ngẫu nhiên

  • Tổng lượt xem

    • 590 375 Lượt

Danh thần Trương Đăng Quế: Một tâm hồn thơ nặng lòng với quê hương

Posted by thinhanquangngai1 trên 12/03/2009

Danh thần Trương Đăng Quế: Một tâm hồn thơ nặng lòng với quê hương
Lê Ngọc Trác

Trương Đăng Quế tự là Diên Phương, hiệu Đoan Trai, Quảng Khê,  xuất thân trong một gia đình nhà Nho thanh bạch. Ông sinh vào năm 1794 tại làng Mỹ Khê, quận Sơn Tịnh tỉnh Quảng Ngãi (có tài liệu cho rằng: ông sinh tại làng Mỹ Lại thuộc huyện Bình Sơn, nhưng chính xác làng Mỹ Khê thuộc xã Tịnh Khê, quận Sơn Tịnh).

Ông là một người thông minh, hiếu học. Năm 1819, Gia Long năm thứ 18, Trương Đăng Quế đổ Hương tiến tại trường thi hương Thừa Thiên. Có thể coi Trương Đăng Quế là người khai khoa đầu tiên của Quảng Ngãi dưới Triều Nguyễn.

Minh Mạng là một vị vua thông minh, hết lòng chăm lo việc nước, sáng suốt trong việc dùng người. Dưới thời Minh Mạng những người được bổ nhiệm làm quan đều có thực tài và thực học (không câu nệ bằng cấp). Trương Đăng Quế là một người tài năng, có tầm hiểu biết rộng về chính trị, văn hoá và quân sự. Chính vì vậy, tuy Trương Đăng Quế chỉ thi đậu hương tiến, năm 1820, vua Minh Mạng vẫn mạnh dạn bổ ông vào làm hành tẩu bộ lễ. Đến năm 1831, bổ nhiệm ông làm việc ở Hàn Lâm Viện và được vua Minh Mạng phân công dạy các hoàng tử và công chúa. Ông được thăng tiến nhiều chức vụ quan trọng: Thượng Thư bộ lễ, bộ lại, bộ công và bộ binh. Năm 1833, năm 1835, Trương Đăng Quế lãnh sứ mệnh Khâm mạng kinh lược chỉ huy đánh giặc Thổ phỉ ở Tuyên Quang, Thái Nguyên, Lạng Sơn, Cao Bằng và Thanh Hoá để an dân. Năm 1836, tiếp tục lãnh sứ mệnh Khâm mạng kinh lược Nam Kỳ. Trương Đăng Quế chỉ đạo việc đạt điền lập địa bạ công điền công thổ ở các tỉnh phía Nam tổ quốc. Và, quy hoạch, phân chia địa giới từ cấp làng, xã đến tỉnh trong toàn miền Nam, tạo cho nhân dân có cuộc sống an cư lạc nghiệp. Theo Sử gia Trần Trọng Kim: “Công cuộc kiểm tra lập địa bạ định lại việc đinh điền và thuế khoá ở Nam Kỳ vào năm 1836 đã tạo cho đất nước có bước phát triển vững chắc về kinh tế và quốc phòng. Toàn Nam Kỳ sau khi đạt điền, đã tính ra được số ruộng đất đưa vào sản xuất lên đến trên 630.075 mẫu. Các thứ thuế điền thổ cũng được định lại một cách tương đối hợp lý”. Năm 1853, ông lãnh sứ mệnh kinh lược xứ Bắc Kỳ để lãnh đạo việc đắp đê điều lo phát triển kinh tế cho các tỉnh ở phía Bắc.

Trương Đăng Quế được triều đình cử làm Chánh chủ khảo các kỳ thi Hội vào các năm 1835, 1838 và thi Đình vào các năm 1838, 1844,… nhằm tuyển chọn nhân tài cho đất nước. Dưới triều Minh Mạng, ông là một đại thần của viện Cơ mật, được thăng Hiệp điện đại học sĩ. Đời vua Thiệu Trị, Trương Đăng Quế là Phụ chánh đại thần, Văn minh điện đại học sĩ. Sang đời vua Tự Đức, ông được thăng Cần chánh điện học sĩ và được phong tước Tuy Thạnh Quận công. Trương Đăng Quế được cử làm Tổng tài ở Quốc sử  quán chủ biên các bộ sách lớn của Triều Nguyễn: Đại Nam thực lực tiền biên, Đại Nam liệt truyện tiền biên, Đại Nam hội điển toát yếu,…

Dưới thời Tự Đức, trước tình hình binh lực hùng mạnh và tân tiến của Pháp, nhiều người lo sợ, muốn giảng hoà với giặc. Trương Đăng Quế là người cầm đầu phe chủ chiến tại Triều đình, quyết tâm đánh Pháp đến cùng (năm 1861, Pháp chiếm Định Tường, Thượng thư bộ hộ Nguyễn Bá Nghi làm khâm sai kinh lý ở Nam kỳ. Nguyễn Bá Nghi biết không thể chống được quân Pháp đã dâng sớ về triều xin nghị hoà với Pháp. Trương Đăng Quế cực lực phản đối, ra lệnh cho Nguyễn Bá Nghi phải tìm mọi kế để đánh Pháp bảo vệ đất nước).

Năm Tự Đức thứ 16 (1863), sau nhiều lần xin cáo lão từ quan, Trương Đăng Quế mới được triều đình đồng ý cho nghỉ hưu. Ông trở về quê hương Quảng Ngãi sống một cuộc sống thanh bần như một người dân quê bình thường.

Trương Đăng Quế mất vào ngày 14 tháng 2 năm Ất Sửu (1865), thọ 73 tuổi. Nghe tin ông qua đời, vua Tự Đức bãi triều 3 ngày tổ chức quốc tang, ban tặng ông hàm Thái sư tên thụy là Văn Lương.

Trương Đăng Quế là một nhà thơ lớn của Triều Nguyễn.

 
Xuân giang khúc

Tạc dạ vũ thủy hạ
Xuân giang vi lãng sinh
Thiếp tâm hữu sở cảm
Diên ngạn tự vi hành
 

(Đêm qua có mưa nhỏ
Lòng sông sóng gợn mờ
Lòng em sao xuyến bấy
Ven sông bước bước hờ)

Bản dịch của Hoàng Tạo

Đọc bài ca sông xuân của Trương Đăng Quế, chúng ta nhận thấy một vị quan đại thần, một nhà chính trị kiệt xuất của Triều Nguyễn có một tâm hồn rộng mở và cũng đầy lãng mạng.

Giáo sư Vũ Khiêu đã có những nhận xét tinh tế về thơ của Trương Đăng Quế: “Thơ của ông sâu sắc về nội dung, chặt chẽ về cấu trúc, tràn đầy tình yêu và đạo lý làm người, đặc biệt là tấm lòng của ông đối với quê hương Quảng Ngãi”.

Thuyền quá Quảng Ngãi cố hương
Xuân phong tống chinh nghích
Thuấn tức việt trùng ba
Lộ chỉ  cố hương quá
Tinh huyền du tử đa
Không hoài Tang tử Kính
Trùng xướng Thử miêu ca
Khởi lập thuyền đầu vọng
Dao thôn ẩn nguyệt la

(Gió xuân đưa nhẹ thuyền  xuôi,
Liếc nhìn theo lớp sóng dồi xa xa.
Bên đường thấp thoáng quê nhà,
Tình vương lữ thứ xót xa can trường
Nỗi niềm Tang tử mang mang,
Thử miêu ca khúc âm vang chẳng ngừng.
Dựa đầu thuyền ngóng mông lung
Nhà thôn dần khuất theo cùng chồi cây)

Bản dịch của Giáo sư Vũ Khiêu 

Bài thơ trên, Trương Đăng Quế viết khi nhận lãnh trách nhiệm kinh lược xứ Nam Kỳ. Trương Đăng Quế và đoàn tùy tùng đi bằng đường biển, thuyền của ông đi sát dọc theo Quảng Ngãi quê hương ông. Nhưng vì mệnh vua và là một người có trách nhiệm với công vụ, không thể dừng lại thăm quê nhà, đứng ở đầu thuyền, nhìn về quê nhà, Trương Đăng Quế xúc động thành thơ với tấm lòng dạt dào thương nhớ quê hương.

Trương Đăng Quế sáng tác văn học rất nhiều. Những danh sĩ cùng thời với ông như Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Phan Thanh Giản, Nguyễn Công Trứ đều rất quý mến ông về tài học và tài thơ. Trương Đăng Quế đã để lại cho đời những tác phẩm sau đây: Thiệu Trị văn gia, Quảng Khê thi văn tập, Học văn dư tập,…

Sự nghiệp chính trị của Trương Đăng Quế gắn liền với triều đình Nhà Nguyễn trong suốt thời kỳ đất nước và triều đình phong kiến Nhà Nguyễn còn tự chủ. Trương Đăng Quế đã có những đóng góp xuất sắc với lịch sử. Nhất là trên các lĩnh vực: Chính trị, kinh tế, văn hoá, giáo dục, văn chương và học thuật.

Tài liệu tham khảo:

– Từ ngàn xưa cho đến mai sau của Giáo sư Vũ Khiêu (2005).
– Đất thiêng người tài của Trường Lưu (Văn hiến số 5 – 2005).
– Tịnh khê xã Văn hiến của Cao Chư (VHNT số 7 – 2007).
– Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim.
– Từ điển nhân vật lịch sử Việt Nam của Nguyễn Bá Thế, Nguyễn Quang Thắng (1999).

Lê Ngọc Trác

8 bình luận to “Danh thần Trương Đăng Quế: Một tâm hồn thơ nặng lòng với quê hương”

  1. Trời Sài Gòn hôm nay mưa nhièu Quá! .Qua một giấc ngủ trưa an lành.Ngồi lên máy đoc thơ các bạn Mình cảm thấy xuyến xao trong lòng.Nhớ quê, nhớ mẹ đã qua đời từ lâu Gõ vào đây bài “MẸ” mình viết lâu lắm.Khi xa quê hương nhưng vẫn lưon lo về mẹ!… Có còn dựoc nằm yên nghỉ một chỗ hay “Phải dời đi nơi khác!…”

    MẸ
    Trên đời, ai sinh ra cũng đều có mẹ.Là tiếng đầu tiên con vừa bập bẹ…
    Đấng quân tử hiền nhân cũng từ mẹ mà ra.
    Ôi! tiếng mẹ thật bao la,mẹ! mẹ ơi! mẹ của ta… Những năm tháng đi qua .Chiến tranh suốt cả đời người.Lặn lội nuôi con lớn lên từng ngày trong bom đạn.Chiếc áo sờn vai,cơm không đủ ăn,độn khoai sắn hai phần.Mẹ nuôi con khôn lớn,chưa đền ơn cho mẹ.
    Mẹ đã ra đi vì cơn bịnh ngặt nghèo.Hơi thở cuối cùng mẹ đã trút từ lâu.Nhưng mắt mẹ chưa hề nhắm lại.Mẹ, mẹ ơi!mẹ còn đợi con đứa, đứa về lần…
    Vuốt mặt mẹ ,rồi lặng lẽ ra đi!… Nước mằt cứ tuôn trào, cổ nghẹn lại.Như bức tường ngăn cách từ đây.Để không còn thấy mẹ.
    Ngày con đi xa ,cũng không được về thắp nhang mộ mẹ.
    Dẫu chân trời góc bể luôn vẫn nhớ về mẹ. Mẹ dã nằm yên dưới nấm mồ.Mỗi lần về thăm mộ mẹ.Tay cầm nén nhang mà sao con nghẹn ngào không nói lên được.
    Những ký ức về mẹ,như hiện lên trong trí óc con.Từng giây phút,mẹ nắm tay con,hai hàng nước mắt,tiễn con đi học nhũng chieừ chũ nhật.Và đôi mắt mẹ không rời hàng dăm bụt trước nhà trông con những chiều thứ bãy.Cái hình ảnh ấy cứ chảy mãi trong con!… Nhưng mẹ khong còn,nằm sâu trong lòng đất!…
    Con thì chân trời đi khắp, rày đây mai đó,Phiêu bạt khắp bốn phương trời.
    Còn mẹ!mẹ có nằm yên được hay không? hay phải dời đi nơi khác!…

    NGUYÊN BÌNH S.G.15g30 21/7/09 (Quá xúc động vì mẹ mình đã nằm trên miếng đất nhà.Sau đó lấy cấp cho người khác,em mình phải tốn mấy trăm ngàn lo dỗi về canh tác,thế mà nay còn muốn đào lên bán dất cho lò gạch lần nữa!…
    cho lò gạch một lần nữa

  2. ngohuudoan said

    Kính anh- Tác giả Lê Ngọc Trác

    Xin mạn phép góp ý anh.

    Khi bài viết của mình có vấn đề, chính anh cũng công nhận sự có vấn đề này, nhưng anh lại không có thiện chí trong việc làm cho nó sáng tỏ và chính xác hơn. NHD thì nhỏ tuổi, chữ nghĩa không được mấy xu, nhưng cũng có thể cảm tính được điều này qua một số bài viết của anh và các comment góp ý của nhiều người ở phía dưới mỗi bài.

    Nói thiệt tình, rất là mừng khi ngày càng có thêm người nghiên cứu, viết lách, biên sọan về các vấn đề có tính văn hóa, lịch sửa dân tộc, đặc biệt (địa phương một chút) là trong có có những nhân vật Quảng Ngãi quê hương mình. Khi bắt đầu viết thì có thể do nhiều hạn chế, trong đó cái quan trọng là nguồn tư liệu (tư liệu năm nào, của ai thì đáng tin cậy hơn) do đó dễ xảy ra lệch lạc thiếu sót so với nhận định của những người từng đọc nhiều nguồn tư liệu, những người hiểu được hòan cảnh viết, nội tình của từng tư liệu. Vì vậy, theo thiển ý của đệ, anh nên để nó ở một nơi nào đó và cần ghi chú thật rõ ràng ở một vị trí dễ thấy nhất để làm sao cho nó khỏi bị vô tình phát tán trước khi mình tham khảo thêm và chỉnh chu lại bài.

    Với bài ở trên, với các góp ý của người đọc, với cái comment trả lời của anh, với mốc thời gian đăng bài, mốc thời gian của các comment, tiểu đệ thấy như vậy là không ổn. Chỉ vì sợ cái sai lệch, cái thiếu sót nó đến tai đến mắt đám đàn em hậu sinh ít đọc (chẳn hạn như NHD)nên đệ mạn phép mạo muội góp ý với anh như vậy, nếu có gì xin anh xem như một người góp ý giữa trời và bỏ qua cho.

    Cảm ơn anh!

    Ngô Hữu Đoàn.

  3. qnnnet said

    (gửi Lê Ngọc Trác)
    Mây Thiên Bút
    http://maythienbut.blogspot.com/2005_11_01_archive.html

    Trương đăng Quế (1793 -1865)
    Xuân Giang Khúc
    春 江 曲

    昨 夜 雨 水 下
    春 江 微 浪 生
    妾 心 有 所 感
    沿 拧 自 為 行

    Tạc dạ vũ thủy hạ
    Xuân giang vi lãng sinh
    Thiếp tâm hữu sở cảm
    Diên ngạn tự vi hành .

    Tạm dịch:
    Đêm qua có mưa nhỏ
    Trên sông sóng gợn mờ
    Lòng em xao xuyến bấy
    Ven sông bước bước hờ.
    ( P.H , 1969)

  4. qnnnet said

    Thưa phải bạn ạ!
    http://dactrung.net/Phorum/tm.aspx?m=43868

  5. qnnnet said

    Tui người Quảng nghĩa …
    Cụ Trương Đăng Quế, hay mang kè kè “Cái Trắp ” (đựng Thi văn )…
    http://www.quangngai.net/forum/showthread.php?t=14796

  6. lengoctrac said

    * Xin phép cho Lê Ngọc Trác được hỏi:
    – Huệ Phạm có phải là Phạm Huệ người gốc ở Đức Hải, Mộ Đức. Nguyên là giáo sư trường Trung học Bình Tuy và Trần Quốc Tuấn. Ông có phải là chú ruột của Phạm chí Dũng không? Nếu đúng, kính chúc chú sức khỏe, cho cháu gửi lời kính thăm ông Nguyễn Liệu.
    – Cháu xin được hỏi có phải bài thơ của Trương Đăng Quế chú dịch phải không (dịch cách đây gần 40 năm rồi phải không?). Một lần nữa kính chúc chú và gia đình sức khỏe
    * Lê Ngọc Trác chân thành cảm ơn Trần Trọng Cát Tường đã góp ý (đúng ra là: Thiệu Trị Văn giai)
    * Ở bản dịch bài thơ Thuyền quá Quảng Ngãi cố hương ở câu thứ tư rớt mất chữ “thứ”. Xin đọc lại là : “Tình vương lữ thứ xót xa can trường”. Mong các bạn thông cảm / Lê Ngọc trác

  7. Bài viết với tiêu đề “(…) một hồn thơ nặng lòng với quê hương”, lại trên trang “thinhan…” được đọc với “con mắt thơ” thì chẳng vấn đề gì. Nhưng với góc nhìn ngoài văn chương thì vương vướng vài hạt bụi nho nhỏ.
    – “Trương Đăng Quế được triều đình cử làm Chánh chủ khảo các kỳ thi Hội vào các năm 1835, 1838 và thi Đình vào các năm 1838, 1844,… “. Kiểm tra lại quyển sách chứa những thông tin cơ bản nhất, quan trọng nhất về các kỳ thi đại khoa thời Nguyễn, Quốc triều khoa bảng lục (vừa được Nxb Văn học tái bản trong bộ “Tuyển tập Cao Xuân Dục”), thì thấy không có khái niệm chánh chủ khảo của các kỳ thi Hội. Chẳng hạn, các “giám khảo” của kỳ thi năm 1835 như sau:
    Quan duyệt quyển: Bùi Ngọc Quĩ, Phạm Sĩ Ái
    Quan đọc quyển: Trương Đăng Quế, Phan Bá Đạt, Phan Thanh Giản, Hà Quyền.
    – Tên một tác phẩm của Trương Đăng Quế là Thiệu Trị văn qui, qui tắc làm văn đời Thiệu Trị, chứ không phải Thiệu Trị văn gia.
    Lấy góc nhìn ngoài văn chương để đọc các bài viết trên trang Thi nhân thì quả là hơi “sỗ sàng” (chữ của Nguyễn Du). Có điều gì khiếm nhã xin lượng thứ.

  8. hue pham said

    Xuân giang khúc

    Tạc dạ vũ thủy hạ
    Xuân giang vi lãng sinh
    Thiếp tâm hữu sở cảm
    Diên ngạn tự vi hành

    (Đêm qua có mưa nhỏ
    Lòng sông sóng gợn mờ
    Lòng em sao xuyến bấy
    Ven sông bước bước hờ)

    Bản dịch của Hoàng Tạo
    ===========================
    Ai dịch bài nầy, như trên ?
    Hỏi tôi thì rõ .
    Anmota

Bình luận về bài viết này